Trang phục cưới của người Việt qua các thời kỳ lịch sử

Từ lâu ngày cưới được xem là ngày quan trọng của đời người. Trong bất kỳ thời kỳ nào thì trang phục cưới của người Việt chúng ta luôn chuẩn bị thật chu đáo.

Nhân dân ta mỗi khi nói tới ngày cưới vẫn thường cho rằng: “trăm năm mới có một lần” hoặc là “cả đời người mới cưới một lần”. Ý nghĩa của những câu này là muốn lễ cưới cần phải được tổ chức cho chu toàn, trọn vẹn và có ý nghĩa. Một trong những yếu tố quan trọng để đặt được yêu cầu trong ngày cưới, đó chính là bộ trang phục cưới của cô dâu, chú rể và cả những người đến dự lễ cưới nữa.

Trang phục cưới của người Việt thời vua Hùng.

Thời vua Hùng còn có tên gọi là thời Âu Lạc là một thời đại thuộc cổ đại của người Việt ta. Căn cứ vào những hình ảnh được khắc họa trên trống đồng và cả những vật khảo cổ bằng gốm, người ta đã hình dung ra được trang phục của con người thời đó. Theo đó thì trong thời kỳ này, vào ngày thường, người đàn ông thì đóng khố cởi trần, còn người phụ nữ thì mặc áo yếm.

Theo truyền thuyết, đám cưới Sơn Tinh và Mỵ Nương, Sơn Tinh được diễn ra vào thời Hùng Vương. Sơn Tinh đem theo biết bao nhiêu sính lễ cưới quý hiếm như là vàng bạc, châu báu, ngọc bích, ngà voi, sừng tê, chim muông … Sính lễ là như thế nhưng trang phục thì cũng phải chỉnh chu, không thể xuềnh xoàng được.

Từ trước tới nay, những bộ trang phục cưới bao giờ cũng mới, đẹp hơn trang phục ngày thường. Thời xưa, bộ trang phục cô dâu cũng chính là bộ trang phục các cô mặc trong ngày hội cổ truyền dân tộc. Thậm chí còn được đính thêm các hoa văn, các loại hạt để cho chiếc áo được đẹp hơn, lạ hơn.

>>> Xem thêm: Khảo cổ về trang phục thời kỳ Âu Lạc – Hùng Vương

Qua các bức tranh của sách lịch sử ghi lại thì trong ngày cưới, Mỵ Nương mặc chiếc áo yếm màu đỏ có dệt hoa văn cùng với mộc chiếc đầm dài. Đầu của Mỵ Nương đội nón thời Âu Lạc. Loại nón này được tạo ra từ biểu tượng của loại chim hạc, loài chim được cho là uyên bác, sáng suốt và sống thọ. Ngược lại, chú rể Sơn Tinh cởi trần hoặc mặc áo lệch vai được làm từ lông thú. Sau lưng còn khoát thêm 1 tấm vải choàng dài. Đó là những bộ lễ phục trong ngày cưới của người Việt thời Âu Lạc, Hùng Vương.

Trang phục cưới của người Việt trong thời phong kiến nhà Nguyễn

Thời phong kiến nhà Nguyễn, trong ngày cưới, các vị công chúa đội mũ ngũ phượng dệt bằng lông đuôi ngựa. Trên mũ có đính 5 con phượng được làm bằng vàng vì thế người ta gọi đó là mũ ngũ phượng. Cầu mũ cũng bằng vàng, ở giữa đính thêm bông hoa đỏ. Hai bên có dây tua được kết bằng 120 hột trân châu và pha lê. Áo bào bằng đoạn bát ty màu đỏ, tay áo thụng thuê hoa tròn và chim phượng, thắt đai đỏ. Xiêm bằng đoạn bát ty màu bạch tuyết, trang trí hình chim phượng và viền kim tuyến. Chiếc giày cưới cũng được làm bằng chất liệu màu đỏ, có thêu chim phượng.

Trang phục cô dâu miền Bắc trong thời phong kiến nhà Nguyễn

Nhìn chung, các cô dâu miền Bắc thường mặc bộ áo mớ ba, ngoài cùng là chiếc áo the thâm, bên trong ản hiện hai chiếc áo màu hồng và xanh hoặc màu vàng với màu hồ thủy. Rồi đến áo cánh trắng, cuối cùng là chiếc yếm hoa đào có dải bằng lụa bạch. Váy sồi đen hoặc váy lĩnh. Thắt lưng gồm hai chiếc bằng lụa màu hoa đào, hoa lý, ngoài cùng lá thắt lưng sồi xe màu đen, có tua ở hai đầu. Vấn khăn, đầu khăn gài chiếc đanh ghim, có đính con bướm vàng hoặc bạc. Tóc để theo kiểu tóc đuôi gà. Lúc đưa dâu, đi đường cô dâu đội nón thúng quai thao. Chân đi dép cong.

Cô dâu Việt đội nón thúng quai thao

Đồ trang sức có khuyên, hoa tai bằng vàng hoặc bạc, cạnh sườn đeo bộ xà tích, con dao, ống vôi bằng bạc chạm trổ tinh vị.

Trang phục cô dâu miền Trung trong thời phong kiến nhà Nguyễn

Cô dâu miền Trung cũng hay mặc áo mớ ba, trong cùng là áo màu đỏ hoặc hồng điều. Áo giữa bằng the hay vân thưa màu xanh chàm. Áo ngoài cùng bằng the hay bằng vân thưa màu đen. Có người chỉ mặc lồng hai áo, trong cùng là màu đỏ hoặc màu hồng điều, còn bên ngoài là vân thưa màu xanh chàm để tọa nên một hợp quang màu tím đặc biệt nền nã. Cô dâu miền Trung hay mặc quần trắng, đi giày thêu. Tóc cô dâu chải lật, búi sau gáy, trên cổ đeo kiềng hoặc quấn chuỗi hột vàng cao lên quanh cổ. Cổ tay đeo vòng vàng , xuyến vàng … Cô dâu con nhà quan hoặc là con nhà giàu thì mặc áo gấm, ngoài khoác áo tứ thân mệnh phục bằng chất liệu gấm dệt hoa phượng, có nẹp to trang trí hoa văn họa tiết chim phượng hoàng nhiều màu sắc, viền quanh cổ áo đến dưới ngực, tay áo thụng …

Trang phục cưới người Việt thời phong kiến
Trang phục cưới người Việt thời phong kiến

Trang phục cô dâu miền Nam trong thời phong kiến nhà Nguyễn

Cô dâu miền Nam mặc áo dài gấm, quần lĩnh đen, đi giày thêu. Tóc chải lật búi lại phía sau đầu. Trên đầu cô dâu gài lược “bánh lái” bằng đồi mồi hoặc bằng vàng, bạc. Có những cô dâu cài trâm vàng, đầu trâm có đính thêm lò xo nhỏ nối tiếp với một con bướm vàng hay bạc, tạo nên độ rung để tăng thêm phần sinh động và thẩm mỹ. Đeo dây chuyền nách (xà nách) bằng vàng, đeo nhiều chuỗi hột vàng ở cổ…

Chú rể lấy công chúa được phong chức phò mã đô úy. Trang phục của phò mã trong ngày cưới cũng có nhiều điểm độc đáo. Đầu phò mã đội mũ có cầu vàng, phía trước đính một bông hoa bằng vàng, hai cánh chuồn bằng thau bộc vàng. Áo măng bào màu lục, ống tay rộng đính bổ tử màu đỏ thêu đám mây, chim hạt, thắt đai màu hồng, chân đi hia.

Chú rể ba miền các tầng lớp nhân dân đều thường mặc áo thụng bằng gấm hay the màu lam. Quần trắng ống sớ, búi tóc, chít khăn nhiễu màu lam. Chân đi văn hài được thêu đẹp.

Trang phục cưới của người Việt trong những năm 1920 – 1930

Những năm 1920 – 1930, ở thành thị miền Bắc, cô dâu mặc áo dài cài vạt, bên ngoài mặc thêm chiếc áo the thâm, bên trong áo màu hồng hay xanh … hoặc ngoài là chiếc áo dài sa tanh hồng, bên trong áo dài lụa trắng Cổ Đô… Mặc quần lĩnh hay sa tanh đen. Chân đi văn hài thêu hạt cườm hoặc đôi guốc cong, Vấn khăn khung đen, đeo hoa tai bèo, cổ đeo nhiều vòng chuỗi hột bằng vàng.

Chú rể mặc áo dài the thâm, hoặc sa tanh, hoặc là bằng gấm hoa … Bên trong mặc áo dài trắng. Quần trắng ống sớ, đi giày Gia Định hoặc giày da đen. Đội khăn xếp. Khi lễ tơ hồng, lễ nhà thờ thì khoác thêm áo thụng lam

Đến giai đoạn sau này, các cô dâu con nhà giàu mặc áo thụng bằng gam màu đỏ hoặc vàng, có họa tiết rồng phượng, cánh tay áo dài và rộng. Mặc quần trắng, đi giày vân hài nhung màu đỏ hoặc vàng hay lam. Trên giày có thêu rồng, phượng bằng hạt cườm hay chỉ kim tuyến lóng lánh. Đầu đội khăn vành dây bằng nhiễu, màu lam hay vàng quấn nhiều vòng quanh đầu. Cách đội khăn như trên thường được gọi là kiểu “Hoàng Hậu”, kiểu này phổ biến từ miền Trung ra đến miền Bắc.

cô dâu mặc áo dài bằng vải mịn khô hoa ướt hoặc gấm hoa, sa tanh hay nhung đỏ… mặc quần lụa trắng. Đầu cô dâu vấn khăn vành dây, cổ đeo kiềng hay dây chuyền, tay đeo xuyến và vòng.

Ở thành thị, sau này còn tiếp thu một số hình thức trang điểm của châu Âu: cô dâu trang điểm son phấn, cài thêm bông hoa hồng trắng bằng vải voan ở trên ngực áo. Tay cô dâu ôm bó hoa cưới lay ơn trắng, bó hoa này tượng trưng cho sự trong trắng của cô dâu. Đồng thời nó cũng góp phần làm đẹp thêm cho bộ trang phục cô dâu trong ngày cưới. Mặt khác, cũng để cho đôi tay của cô dâu đỡ trống trải, ngượng nghịu. Chú rể sẽ mặc comle, thắt cravat hay cài nơ ở cổ, đi giày da.

Ở vùng ngoại thành, cô dâu hay mặc áo dài cài cúc, quần lĩnh đen theo lối cổ truyền trong lễ cưới. Chú rể sẽ diện áo the, quần trắng, đội khăn xếp.

Trong kháng chiến chống Pháp, ở vùng tự do, đám cưới được tổ chức giản dị theo đời sống mới, phù hợp với hoàn cảnh từng nơi. Trang phục lễ cưới cũng vì vậy mà không có gì khác biệt nhiều với trang phục thường ngày, chỉ là quần áo được may mới thay vì sử dụng những bộ quần áo đã từng mặc rồi.

Trang phục cưới của người Việt trong thời kỳ Pháp thuộc
Trang phục cưới của người Việt trong thời kỳ Pháp thuộc

Trang phục cưới của người Việt từ năm 1954

Từ năm 1954, nhiều nghi thức, trang phục lễ cưới phức tạp của người Việt ta được giản đơn hóa. Điều này bắt nguồn từ trình độ nhận thức của người dân miền Bắc mới được giải phóng, cũng như điều kiện đất nước còn tạm thời bị chia cắt.

Ở các vùng thành thị, cô dâu mặc áo dài trắng hoặc các màu sáng, nhạt. Quần trắng, giày cao gót được sử dụng phổ biến. Trên tay các cô dâu cũng xuất hiện các bó hoa lay ơn. Mái tóc phi dê hoặc chải bồng, cặp tóc là xu hướng thời đó. Mặt được tran điểm má hồng, tô môi son. Chú rể mặc áo comle, thắt cravat và đi giày tây.

Những người là cán bộ, hoặc những người ở nông thôn cũng có trang phục cưới riêng. Theo đó, cô dâu thường mặc áo sơ mi trắng hoặc áo cánh trắng hay áo bà ba, quần đen, đi dép mới. Chú rể mặc áo sơ mi mới, quần âu, đi giày hoặc xăng đan cũng có khi đi cả dép nhựa. Đối với những người đi bộ đội, họ có thể mặc cả bộ quận phục trong ngày cưới. Cán bộ thì có khi mặc quần áo đại cán, tóc chải gọn gàng.

Bộ đội mặc cả trang phục lính khi làm đám cưới

Ở miền Nam, vùng tự do, trang phục cưới cũng như ở thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Trang phục cưới của người Việt từ sau năm 1975

Từ sau năm 1975, đất nước đã thống nhất, mối giao lưu văn hóa được mở rộng. Đặc biệt là những năm 1980 – 1981, do ảnh hưởng các mốt thời trang từ Châu Âu và Mỹ, trong đám cưới, một số cô dâu ở thành thị miền Nam và miền Bắc mặc áo liền váy màu trắng hoặc màu vàng. Đặc điểm của loại váy này là có gấp nếp ở tay, ở ngực, váy xòa rộng, dài quá gót chân. Có chiếc từ thắc lưng đến gấu chia làm nhiều đoại với những khoang đăng tên, gọi là váy ba từng hay váy năm tầng. Cũng có những chiếc váy cưới dài gáp nhiều đường, chiết ở ngực, thắt lưng. Các nàng dâu mặc những chiếc váy này kết hợp với những đôi giày cao gót màu trắng, đeo thêm găng tay mỏng. Còn trang sức, họ đeo các chuỗi hạt kim cương hoặc giả kim cương hoặc đá saphia lóng lánh trên cổ trong ngày rước dâu. Tóc phi dê là kiểu tóc phổ biến. Cô dâu nào có mái tóc dài thì làm phi de giả. Cũng có những kiểu tóc uốn thành chín búp dài gọi là búp Ăng-lê rủ xuống quanh đầu.

Trang phục cưới
Trang phục cưới vào những năm 1975 – 1986

Mái tóc phía trước cài vòng hoa trắng bằng vải hoặc chải tóc bồng cao, cài những vòng hạt có tua rủ xuống hai bên thái dương và ở giữa trán, chùm thêm một khăn voan trắng trên đầu. Lúc đưa dâu, có cô dâu kéo khăn xuống che phủ gương mặt của mình. Mặt trang điểm phấn son đậm nét. Nhiều người kẻ mắt đôi, mi mắt bôi xanh, gắn hàng lông mi giả dài và cong. Tay ôm bó hoa lay ơn trắng, còn có thêm một dây hoa hồng trắng dài đến chân. Tất cả làm cho cô dâu khác biệt và nổi bật giữa các phù dâu. Chú rể mặc áo comle màu be hoặc là comle kẻ caro màu đậm, cũng có thể mặc áo sơ mi nếu lễ cưới tổ chức vào mùa hè, thời tiết ôi bức. Ngoài ra, chú rể còn thắt thêm cravat điểm hoa nhiều màu và đi giày da màu đen bóng lưỡng. Đặc biệt, chú rể còn có cài một bông hoa hồng trắng ở túi áo ngực cho khác với những người phù rể.

Ở nông thôn, trang phục cô dâu và chú rể chỉ là kiểu quần áo mặc thường ngày, nhưng mới và đẹp. Đối với phù rể thì mặc trang phục tương tự như chú rể, còn phù dâu mặc trang phục tương tự như cô dâu. Gần đây, đám cưới ở thành thị, phù dâu cũng chỉ mặc áo dài các màu, quần trăng và trang điểm đẹp.

Để thêm phần duyên dáng, tươi đẹp, cô dâu cài bên mái tóc một dải hoa trắng, đeo những đồ trang sức như dây chuyền, chuỗi hạt …Trang điểm nhẹ chứ không trang điểm đậm đến nổi như biến thành một người khác ai cũng không nhận ra.

Những người đi dự đám cưới chọn những bộ trang phục gọn gàng, lịch sự, tránh những bộ quần áo lố lăng, kệch cỡm.

Ngày nay, cuộc sống có nhiều thay đổi theo hướng hiện đại hơn, phong tục cưới hỏi của người Việt cũng được tinh giản hóa, đơn giản hơn. Các bộ trang phục cưới cũng được cải tiến khác biệt nhiều so với trước kia.

Trang phục cưới của người Việt thập niên 80 đến nay

Tuy vậy, đến những năm 1981 -1982, với xu hướng hướng về cội nguồn, trang phục cô dâu đã quay về lại với chiếc áo dài cổ truyền dân tộc, tuy nhiên nó được cách điệu và đa dạng hơn so với chiếc áo dài trước kia. Trong đó phổ biến các kiểu áo dài sau đây:

Kiểu áo dài “hoàng hậu”

Đây là kiểu áo dài cổ đứng cao, tay thụng, dài vừa tầm, may sát thân. Màu sắc thường sử dụng là màu đỏ hoặc kết hợp nhiều màu sắc khác nhau. Đầu cô dâu đội khăn vành dây màu vàng bằng vải kim tuyến, ngực áo cài bông hoa màu hồng trắng, mặc quần trắng và đi giày cao gót. Gương mặt cô dâu được trang điểm theo tông nhẹ nhàng.

Kiểu áo dài bình thường

Kiểu áo dài này thường được may với tông màu trắng hoặc các màu sáng có điểm thêm hoa nhẹ. Áo được may sát thân, tay hơi loe, vai rác lăng, vạt dài ngang ống chân. Cô dâu mặc áo dài kết hợp với quần trắng và giày cao gót. Mái tóc cô dâu được để tự nhiên và cài thêm bông hoa trắng nhỏ, trên tay ôm hoa lay ơn trắng.

Trang phục cưới của người Việt thời nay
Trang phục cưới của người Việt thời nay

Trang phục lễ cưới người Việt cho đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn. Những nét tiến bộ trên cơ sở truyền thống dân tộc được nhân dân phát huy và không ngừng sáng tạo thêm. Tuy nhiên, cũng có những mốt “hiện đại” theo sự biến động của trào lưu thời trang của nước ngoài. Những bộ trang phục cưới này thật xa lạ và không phù hợp với vóc dáng của người phụ nữ Việt Nam. Ngoài ra, cũng xuất hiện những kiểu trang điểm cô dâu diêm dúa, lạc lõng, lai căng, thiếu sự hài hào theo phong cách nước ngoài không phù hợp với các cô gái của chúng ta.

Trang phục lễ cưới nói chung của cô dâu và cả chú rể cần tùy thuộc vào khả năng kinh tế của từng gia đình. Ngoài ra, chúng ta cũng cần dựa theo phong tục tập quán ở từng địa phương mà chọn lựa bộ trang phục cưới cho phù hợp. Việc chọn lựa trang phục cưới không thể tùy tiện, không nên quan niệm rằng loại vải nào càng đắt tiền thì càng đẹp, màu sắc càng rực cỡ thì càng sang trọng và hợp thời trang. Ngoài màu sắc và chất liệu vảy của bộ áo cưới thì bạn cũng phải lựa chọn những trang phục cưới phù hợp với tuổi tác và vóc dáng của mình nữa. Có như thế, bạn mới lựa chọn được bộ trang phục cưới vừa đẹp vừa sang trọng cho mình trong ngày cưới.

>>> Xem thêm: Phương pháp lập ngân sách cho đám cưới

>>> Xem thêm: Những lời khuyên hữu ích khi mặc váy cưới

, , , , , ,

4 bình luận trong “Trang phục cưới của người Việt qua các thời kỳ lịch sử

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *