Trong phong tục cưới hỏi của người Ba Na, quyền tự do hôn nhân của con cái được tôn trọng, không có tình trạng ép buộc. Đây là một trong những phong tục được coi là đẹp và tiến bộ trong các phong tục cưới hỏi của các dân tộc thiểu số tại Việt nam
Dân tộc Ba Na và các nghi lễ cưới hỏi
Dân tộc Ba Na có khoảng 10 ngàn người, thuộc nhóm Môn – Khmer. Nó được phân bổ chủ yếu ở vùng thung lũng sông Đắc Bla, thuộc tỉnh Kon Tum và một số sinh sống ở tỉnh Gia Lai, Bình Định, Phú Yên, Đắc Lắc.
Trãi qua nhiều giai đoạn phát triển, cho đến nay đã và đang tồn tại ở người Ba Na chế độ hôn nhân một vợ một chồng bền vững. Phong tục cưới hỏi của người Ba Na tuy còn nhiều nét nguyên sơ nhưng nó lại giàu tính nhân văn và mang đậm sắc thái dân tộc.
Trai gái dân tộc Ba Na đến tuổi trưởng thành đều có quyền tự do lựa chọn người bạn đời mà không cần đến sự trợ giúp của cha mẹ. Tiêu chuẩn chọn lựa bạn đời của người Ba Na là: trung thực, khỏe mạnh, giỏi làm rẫy. Con trai thì phải có tài săn bắn, lấy củi. Con gái thì phải thạo đan lát, dệt vải. Từ lúc yêu nhau, cho đến khi nên vợ, nên chồng, đôi trai gái phải trải qua 2 nghi lễ bắt buộc của dân tộc Ba Na. Đó chính là lễ trao vòng và lễ cưới.
Lễ trao vòng trong phong tục cưới hỏi của người Ba Na
Lễ trao vòng trong tiếng Ba Na được gọi là lễ “Cật Riêng”. Nó có ý nghĩa như lễ đính hôn của người Kinh. Khi đã thật sự yêu thương nhau và quyết định tiến tới hôn nhân, đôi trai gái sẽ về thưa với gia đình hai bên. Theo phong tục, ba của chàng trai sẽ hỏi ý kiến con trai mình, còn mẹ của cô gái thì hỏi ý kiến của con gái mình.
Nếu đôi bên đều chấp thuận hôn lễ, thì nhà trai sẽ tìm người mai mối. Người được chọn làm mai mối phải là đàn ông. Người này thạo phong tục và giỏi ăn nói. Ông mối sẽ mời nhà gái đến nhà trai để tiến hành làm lễ trao vòng cho đôi bạn trẻ.
Trước sự hướng dẫn của ông mối và sự chứng kiến của cả gia đình 2 bên, đôi trai gái lần lượt trao vòng cho nhau. Thường thì chàng trai trao cho cô gái chiếc vòng nhôm. Ngược lại, cô gái trao cho chàng trai chiếc vòng làm bằng đồng.
Ở tỉnh Kon Tum, vật đính hôn của chàng trai trao cho cô gái còn có thêm một chuỗi hạt cườm đeo trên cổ. Ngoài lễ vật đính hôn, đôi trai gái còn có thể tặng cho nhau những kỷ vật do chính tay mình làm ra.
Luật tục Ba Na quy định, đôi trai gái đã tiến hành lễ trao vòng thì không được có quan hệ yêu đương trai gái với người khác nữa. Nếu vi phạm, hoặc vì một lý do nào đó, họ muốn thoái hôn, thì một trong 2 bên phải nộp cho ông mối 1 con gà. Ngoài ra, còn phải trả lại vòng và bồi thường danh dự cho bên kia một con lợn ba gang và một chiếc nồi đồng bảy gang.
Lễ cưới trong phong tục cưới hỏi của người Ba Na
Tiếng Ba Na gọi lễ cưới là “Pơ Koong”. Pơ Koong thường được tiến hành vào cuối năm, nghĩa là sau mùa thu hoạch. Nó thường được diễn ra vào những tháng cuối năm (tiếng Ba Na gọi là tháng Khay Ning Nong” , tương đương với tháng 12 và tháng 1 dương lịch. Đây là thời điểm nông nhàn, thóc lúa đã đầy kho, trâu bò đầy chuồng và gà đầy sân.
Ngày được chọn làm lễ cưới bao giờ cũng là ngày giữa tháng, ngày trăng tròn, ngày được coi là tốt nhất để cử hành những việc trọng đại. Đám cưới được diễn ra kéo dài đến hết một ngày. Mỗi đám cưới được xem là 1 ngày hội trong làng.
Hôn lễ được cử hành vào buổi chiều, tại nhà Rông. Lễ vật trong lễ cưới bao gồm: một ché rượu cần, một con gà với bộ gan được luột chín và một đĩa tiết sống. Trong không khí trang nghiêm, trước sự chứng kiến của dân làng và gia đình 2 họ, người đại diện sẽ làm lễ khấn báo với thần bản mệnh của cộng đồng. Họ sẽ lấy tiết gà bôi lên đầu cô dâu và chú rể. Tiếp đến là ông mối sẽ cầm tay có đeo vòng của cô dâu và chú rể chạm vào nhau. Ông sẽ yêu cầu đôi tân lang tân nương ăn chung 1 cái đùi gà, một miếng gan gà, uống chung 1 chén rượu cúng. Già làng và ông mối chúc phúc cho đôi tân hôn.
Tiệc rượu chiêu đãi trong đám cưới của dân tộc Ba Na
Buổi tối, sau hôn lễ ở nhà Rông, đám cưới được tiếp tục tại hai gia đình với sự góp mặt của toàn thể dân làng. Mọi người sẽ quây quần bên ché rượu cần. Thức ăn được chức trên những chiếc lá Kơ Pang và được đặt trên tấm phên hay chiếc nong to. Cha mẹ cô dâu và chú rể đến từng ché để mời và cám ơn dân làng.
Trong buổi tối hôm đó, khi đám cưới đã kết thúc, ông mối sẽ dắt cô dâu về nhà trai và giao cho chú rể, sau đó ông sẽ tự tay trải chiếu cho đôi tân hôn. Trước khi đi ngủ, cô dâu và chú rể ăn chung với nhau bữa cơm đầu tiên.
Ngày hôm sau, gia đình thông gia 2 bên lần lượt mời ông mối đến nhà để cám ơn và trả công theo phong tục của người Ba Na.
Quyền tự do hôn nhân của con cái được tôn trọng, không có tình trạng ép buộc hay gả bán. Trừ lễ vật ở nhà Rông do nhà trai chuẩn bị, còn chi phí cho bữa tiệc chiêu đãi ở gia đình nào thì gia đình đó lo. Đây là một phong tục đẹp của cộng đồng dân tộc người Ba Na.
>>> Xem thêm: Phong tục cưới của dân tộc Chăm tại Việt Nam
Phong tục của dân tộc Ba Na thấy rất tiến bộ. Trai gái có thể tự do yêu đương tìm hiểu nhau. Không có cảnh cha mẹ đặt đâu con ngồi đó như nhiều dân tộc khác. Nếu trai gái hợp nhau có thể tiến đến hôn nhân
Mỗi dân tộc đều có phong tục cưới riêng, không ai giống nhau